Trận hải chiến đầu tiên ngày 13 tháng 11 Hải_chiến_Guadalcanal

Mở đầu

Phó đô đốc Abe Hiroaki.

Hạm đội của Abe Hiroaki thiết lập đội hình cách 110 km về phía bắc eo biển Indispensable Strait và bắt đầu tiến về Guadalcanal vào ngày 12 tháng 11, dự định sẽ đến nơi vào buổi sáng sớm hôm sau ngày 13 tháng 11. Đoàn tàu vận tải chậm hơn cùng 11 hay 12 khu trục hạm gồm Hayashio, Oyashio, Kagero, Umikaze, Kawakaze, Suzukaze, Takanami, Makinami, Naganami, AmagiriMochizuki được chỉ huy bởi Tanaka Raizo bắt đầu đi vào vùng biển New Georgia Sound từ Shortlands theo kế hoạch sẽ đến Guadalcanal vào đêm ngày 13 tháng 11 [30][31][32][33][34]. Ngoài hai thiết giáp hạm, hạm đội của Abe còn gồm tuần dương hạm hạng nhẹ Nagara cùng 11 khu trục hạm chia làm hai nhóm. Nhóm khu trục hạm số 10 được chỉ huy bởi thiếu tướng hải quân Kimura Susumu từ chiếc Nagara gồm Amatsukaze, Yukikaze, Akatsuki, Ikazuchi, InazumaTeruzuki. Nhóm khu trục hạm số 4 được chỉ huy bởi thiếu tướng hải quân Takama Tamotsu gồm Asagumo, Murasame, Samidare, YudachiHarusame[35][36]. Ba khu trục hạm khác là Shigure, ShiratsuyuYugure làm nhiệm vụ cảnh giới phía sau trong quần đảo Russell khi hạm đội của Abe tiến vào vùng biển quanh đảo Savo phía Bắc ngoài khơi Guadalcanal[37].

Đô đốc Daniel J. Callaghan.

Máy bay trinh sát của Hoa Kỳ phát hiện hạm đội Nhật Bản đang tới gần và phát tín hiệu cảnh báo cho chỉ huy của quân Đồng Minh[38][39]. Khi nhận được cảnh báo Richmond K. Turner đã tập hợp và tách tất cả các tàu có thể chiến đấu ra khỏi đoàn tàu vận tải để bảo vệ lực lượng trên bờ ở Guadalcanal khỏi các cuộc tấn công và đổ bộ của Nhật Bản có thể xảy ra đồng thời ra lệnh cho các tàu vận tải rút ra khỏi khu vực vào lúc hoàng hôn ngày 12 tháng 11. Đô đốc Daniel Callaghan có thâm niên hơn vài ngày nên đã được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng, dù Norman Scott có nhiều kinh nghiệm hơn[40][41][42][43]. Callaghan chuẩn bị để nghênh chiến với hạm đội của Nhật Bản vào ban đêm trong một trận đánh quyết liệt. Lực lượng hải quân của Callaghan bao gồm hai tuần dương hạm hạng nặngSan FranciscoPortland, ba tuần dương hạm hạng nhẹ là Helena, JuneauAtlanta cùng 8 khu trục hạm Cushing, Laffey, Sterett, O'Bannon, Aaron Ward, Barton, MonssenFletcher. Đô đốc Callaghan chỉ huy trên chiếc San Francisco[44].

Khi tiến đến Guadalcanal hạm đội Nhật Bản đã đi vào một vùng mưa dông lớn và dày đặc, do đội hình vốn rất phức tạp cùng với các mệnh lệnh khó hiểu của Abe đội hình của hạm đội Nhật Bản đã tách ra thành nhiều nhóm[45][46]. Hạm đội của Hoa Kỳ đã xếp thành một hàng dài bao quanh vùng biển Savo với các khu trục hạm đứng trước và sau hàng phòng thủ còn các tuần dương hạm đứng chính giữa. Khoảng cách giữa các khu trục hạm với các tuần dương hạm là 800 yards (730 m), giữa các tuần dương hạm với nhau là 700 yards (640 m) và giữa các khu trục hạm với nhau là 500 yards (460 m). Năm chiếc tàu được trang bị hệ thống ra đa cảm biến mới và có tầm hoạt động xa nhưng Callaghan quyết định không để chúng đứng ở phía trước hàng phòng thủ, và cũng không chọn tàu nào làm soái hạm cho mình. Callaghan không phổ biến kế hoạch tác chiến chiến cho các thuyền trưởng trong hạm đội của mình[47][48]

Diễn biến

Sơ đồ đội hình hạm đội Hoa Kỳ.

Vào khoảng 01:25 ngày 13 tháng 11 trong điều kiện trời tối đen như mực do cơn mưa dông lớn và trăng khuyết, hạm đội Nhật Bản tiến vào eo biển giữa Savo và Guadalcanal, sẵn sàng pháo kích sân bay Henderson[49]. Một số tàu của Hoa Kỳ đã phát hiện ra các tàu của Nhật Bản vào lúc 01:24 nhưng gặp vấn đề thông tin liên lạc để thông báo cho Callaghan, vì thiếu kinh nghiệm hoạt động đồng bộ và chất lượng hệ thống radio mà họ được trang bị, cũng như sự thiếu kỷ luật trong thao tác phát tín hiệu liên lạc[50][51][52][53]. Vài phút sau hai lực lượng gần như đồng thời nhìn thấy nhau, nhưng cả Abe HiroakiDaniel J. Callaghan đều ngần ngại ra lệnh cho các tàu của mình tấn công ngay lập tức. Abe gần như bất ngờ bởi hạm đội kẻ thù ở quá sát nên không thể quyết định được liệu ông có nên ra lệnh tạm rút lui để các thiết giáp hạm có đủ thời gian thay đạn nổ sát thương (dùng để pháo kích) thành đạn chống hạm, hay tiếp tục tiến lên phía trước. Ông quyết định tiếp tục tiến lên[53][54]. Callaghan thì định đánh thọc sườn hạm đội Nhật Bản như Scott đã làm trong trận chiến Cape Esperance nhưng lại bị rối vì chỉ nhận được thông tin không đầy đủ, và vì rằng đội hình hạm đội Nhật Bản chia thành từng nhóm nhỏ, nên ông đã ra những mệnh lệnh di chuyển hạm đội khó hiểu, và nói chung là ông để mất quá nhiều thời gian trước khi hành động. Đội hình tàu chiến của Hoa Kỳ bắt đầu bị phân rã, góp phần vào việc Callaghan phải trì hoãn ra lệnh nổ súng, để xác định và sắp xếp lại đội hình[55][56][57]. Trong lúc này các tàu của Nhật Bản đã đan xem vào giữa đội hình của Hoa Kỳ, các thuyền trưởng hai bên đều bồn chồn đợi lệnh khai hỏa[53].

Vào lúc 01:48 AkatsukiHiei bật hai đèn pha dò tìm vào chiếc Atlanta chỉ cách 3.000 yard (2,7 km) (là cự ly bắn trực xạ của các pháo hạm cỡ lớn lớn). Vài chiếc tàu của hai bên bắt đầu tự nổ súng lẻ tẻ vào nhau. Nhận ra rằng lực lượng của mình đã bị bao vây bởi tàu Nhật Bản, Callaghan ra lệnh "tàu số lẻ nổ súng bên mạn phải, tàu số chẵn bắn sang mạn trái" (chỉ có điều là trước khi trận đánh nổ ra, các tàu không được phân công số, và đội hình tàu chiến vốn dĩ đã rất hỗn độn)[58]. Tất cả các tàu chưa nổ súng còn lại của Hoa Kỳ đều khai hỏa, một số tàu khác thì phải thay đổi mục tiêu cho phù hợp với mệnh lệnh của Callaghan[59][60][61]. Hai lực lượng ở thế đan xen với nhau, bắn pháo cận chiến vào nhau một cách hỗn loạn như các trận hải chiến ở các thế kỷ trước. Hoa tiêu của chiếc Monssen mô tả trận đánh "cứ như trận loạn đả trong quán bar khi tắt đèn"[62].

Sơ đồ bắt đầu chiến sự khi các tàu Hoa Kỳ bắt đầu quay sang trái theo chiều của mũi tên đen.

Có ít nhất sáu tàu của Hoa Kỳ là Laffey, O'Bannon, Atlanta, San Francisco, PortlandHelena đã bắn vào chiếc Akatsuki vì nó đã thu hút sự chú ý với đèn pha dò tìm của mình. Chiếc Akatsuki bị trúng liên tiếp nhiều phát đạn, phát nổ và chìm chỉ sau ít phút. Chỉ có tám thuyền viên trong 197 thủy thủ của chiếc Akatsuki là sống sót sau khi chiếc tàu bị chìm[63][64][65].

Vì ở vị trí tiên phong nên chiếc tuần dương hạm Atlanta đã bị trúng ngư lôi của các tàu Nhật Bản như Nagara, InazumaIkazuchi như để đáp trả lại chiếc Akatsuki. Các loạt đạn pháo khiến chiếc Atlanta bị hỏng nặng, và bị ngư lôi Kiểu 93 đánh trúng khiến động cơ của nó bị mất phân nửa công suất[66]. Chiếc Atlanta bị trôi vào giữa làn lửa đạn của chiếc San Francisco đã khiến nó trúng đạn gây hư hại cực kỳ nghiêm trọng giết chết đô đốc Scott và nhiều thành viên trên bong chỉ huy[67][68][69]. Chiếc Atlanta không còn khả năng di chuyển hay bắn trả, trôi dạt bất điều khiển và bị loại ra khỏi trận chiến khi các tàu của Nhật Bản bỏ qua nó. Một khu trục hạm dẫn đầu của Hoa Kỳ là chiếc Cushing bị kẹt trong là lửa đạn của các khu trục hạm Nhật Bản, thậm chí có thể có cả chiếc Nagara. Nó bị hư hại rất nặng và bị bất động[70][71].

Chiếc Hiei với 9 đèn pha dò tìm cỡ lớn, và do hướng di chuyển cắt xuyên qua đội hình của Hoa Kỳ nên đã trở thành mục tiêu chính của nhiều chiến hạm Hoa Kỳ. Chiếc Laffey đi quá gần chiếc Hiei đến nỗi chúng có thể đụng nhau nếu bị chệch khoảng 6,1 m[70][72][73]. Chiếc Hiei không thể hạ tháp pháo chính cũng như tháp pháo phụ xuống đủ thấp để có thể tấn công chiếc Laffey nhưng chiếc Laffey thì lại có thể quét khẩu pháo 5-inch (130 mm) và súng máy của mình vào thượng tầng của chiếc Hiei khiến nó bị hư hỏng nặng phần trên và phần bong tàu, làm bị thương phó đô đốc Abe cũng như giết chết tham mưu trưởng của ông[70][74]. Phó đô đốc Abe phải rất khó nhọc điều khiển chiếc tàu của mình cho tới cuối trận chiến[75]. Hai chiếc SterettO'Bannon cũng bắn tầm gần vào thượng tầng chiếc Hiei, và có lẽ phóng một hay hai ngư lôi vào thân chiếc Hiei khiến nó bị hư hỏng nặng hơn, trước khi hai khu trục hạm này chạy vào bóng đêm[76][77].

Sơ đồ đường đi của chiếc Hiei và các tàu đã tấn công nó.

Không thể bắn tháp pháo chính và tháp pháo thứ hai vào ba khu trục hạm đang quấy nhiễu mình nên chiếc Hiei đã tập trung hỏa lực của mình vào chiếc San Francisco chỉ cách khoảng 2.500 yard (2,3 km)[78]. Cùng với nó là các chiếc Kirishima, InazumaIkazuchi bốn chiếc tàu cùng nã pháo vào chiếc San Francisco phá hủy phòng lái, giết chết đô đốc Callaghan, thuyền trưởng Cassin Young và hầu hết tất cả mọi người trên bong. Các loạt đạn đầu tiên của chiếc Hiei và Kirishima là đạn nổ sát thương nên đã giảm thiệt hại cho chiếc San Francisco và có thể đã giúp nó không bị chìm nghỉm ngay lập tức nhưng lại tăng thương vong lên cao. Do không tính tới khả năng sẽ đấu pháo với tàu địch nên thuyền viên trên hai chiếc thiết giáp hạm của Nhật Bản đã phải mất vài phút để có thể thay loại đạn xuyên giáp. Hơn nữa chiếc San Francisco đã hầu như hoàn toàn bất lực để có thể tự vệ hay có thể lái một cách chính xác trong việc cận chiến[79][80]. Chiếc Helena đã đi theo chiếc San Francisco để cố gắng bảo vệ nó khỏi các thiệt hại khác[81].

Hai trong các khu trục hạm của Hoa Kỳ gặp sự cố. Chiếc Nagara hoặc hai khu trục hạm TeruzukiYukikaze đã tiến gần chiếc Cushing và nã pháo vào nó phá hủy toàn bộ hệ thống điều khiển[62][74][82]. Không thể tiếp tục đánh trả, thủy thủ đoàn của chiếc Cushing bỏ tàu và nó đã bị chìm vài giờ sau đó[83]. Chiếc Laffey tránh được việc phải đối đầu với chiếc Hiei nhưng lại phải chống lại các chiếc Asagumo, Murasame, Samidare và có thể thêm Teruzuki[84][85]. Các khu trục hạm Nhật Bản đã nã pháo vào chiếc Laffey và phóng ngư lôi vào nó phá hủy phần sống tàu. Vài phút sau ngọn lửa trên chiếc Laffey lan đến kho đạn khiến nó nổ tung và chìm nghỉm[70][86].

Chiếc Portland sau khi giúp đánh chìm chiếc Akatsuki đã bị trúng ngư lôi của chiếc Inazuma hay Ikazuchi khiến nó bị hỏng nặng phần đuôi và chỉ có thể chạy vòng vòng. Trong vòng đầu tiên nó đã bắn bốn loạt đạn vào chiếc Hiei nhưng sau đó nó không đóng góp được gì nữa trong trận chiến[87][88].

Hai chiếc YudachiAmatsukaze lần lượt nghênh chiến với năm tàu trong hậu đội của hạm đội Hoa Kỳ. Hai ngư lôi của chiếc Amatsukaze đã đánh trúng chiếc Barton và nhấn chìm nó ngay cùng với hầu hết thủy thủ đoàn[89][90]. Chiếc Yudachi phóng ngư lôi trúng chiếc Juneau khiến nó trở nên bất động, phá hủy phần sống tàu cùng hầu hết các hệ thống điều khiển. Chiếc Juneau chạy về phía đông và chập chạp lết ra khỏi trận chiến[91][92][93].

Chiếc Monssen tránh xác chiếc Barton và các mảnh vỡ để tìm mục tiêu. Nhưng nó đã bị phát hiện bởi các chiếc Asagumo, MurasameSamidare vừa diệt xong chiếc Laffey, các tàu này tấn công tới tấp vào Monssen khiến nó bị hư hỏng nghiêm trọng và buộc thủy thủ phải bỏ tàu. Chiếc tàu này đã bị chìm ít lâu sau đó[94][95][96].

Chiếc Amatsukaze tiến lại gần chiếc San Francisco với ý định đánh chìm chiếc tàu này. Tuy nhiên khi lại gần San Francisco, chiếc Amatsukaze đã không để ý chiếc Helena và bị tàu này bắn vào mạn tàu ở tầm gần khiến nó bị hư hỏng nặng. Chiếc Amatsukaze thả khói mù che mắt chiếc Helena và chạy đi trong lúc các chiếc Asagumo, MurasameSamidare tiến đến tấn công chiếc Helena[65][97].

Hai chiếc Aaron WardSterett đang tìm mục tiêu, phát hiện thấy chiếc Yudachi vốn không để ý đến sự hiện diện của hai khu trục hạm Hoa Kỳ này[98]. Cả hai tàu của Hoa Kỳ bắn pháo và ngư lôi vào chiếc Yudachi cùng lúc khiến khu trục hạm này bị hư hại nghiêm trọng buộc thủy thủ đoàn phải bỏ tàu[84]. Tuy nhiên chiếc tàu này không bị chìm ngay lập tức. Chiếc Sterett tiếp tục tìm mục tiêu thì bị chiếc Teruzuki tấn công gây hư hỏng nặng và buộc phải rút khỏi trận chiến về hướng Đông[99]. Chiếc Aaron Ward thì đối đầu một chọi một với chiếc Kirishima nhưng bị thua và bị hư hỏng nặng. Chiếc tàu này đã cố gắng chạy khỏi vùng chiến sự nhưng sớm bị bất động do động cơ đã bị hỏng[100].

Robert Leckie, một lính thủy quân lục chiến Mỹ chứng kiến trận đánh này trên đảo Guadalcanal đã kể lại: "Pháo sáng sáng bắn lên cao, khủng khiếp và đỏ rực. Các vệt pháo sáng khổng lồ xé toạc màn đêm trong ánh sáng cam... Mặt biển cứ như một tấm đá thủy tinh được đánh bóng mà trên đó các tàu chiến như được thả lên đó, bất động, làm tâm điểm của những hình tròn lan ra xung quanh như những viên đá rớt xuống bùn"[101].

Sau 40 phút kịch chiến tay đôi với nhau hạm đội hai bên bắt đầu tách dần nhau ra và ngừng bắn vào lúc 02:26 sau khi Abe và thuyền trưởng Gilbert Hoover (thuyền trưởng của chiếc Helena và là chỉ huy cao cấp nhất của hạm đội Hoa Kỳ còn sống sót cho đến lúc đó) ra lệnh ngưng chiến[102]. Phía đô đốc Abe thì có một thiết giáp hạm (Kirishima), một tuần dương hạm hạng nhẹ (Nagara) và bốn khu trục hạm (Asagumo, Teruzuki, Yukikaze, và Harusame) chỉ bị hư hỏng nhẹ cùng bốn khu trục hạm (Inazuma, Ikazuchi, Murasame, và Samidare) bị hư hỏng tương đối. Hoa Kỳ thì chỉ còn một tuần dương hạm hạng nhẹ (Helena) và một khu trục hạm (Fletcher) là vẫn còn đủ khả năng chống trả. Dù có lẽ Abe không nhận ra, nhưng tình thế đã không để cho hạm đội của ông bắn phá sân bay Henderson và tiêu diệt hoàn toàn hạm đội Hoa Kỳ, tạo ra một vùng an toàn để đổ bộ quân tiếp viện và quân nhu[103].

Sơ đồ toàn cảnh trận chiến.

Tuy nhiên có thể do không nắm rõ được tình hình Abe đã quyết định bỏ nhiệm vụ và rút ra khỏi khu vực. Có nhiều giả thuyết khác nhau cho lựa chọn này. Như hầu hết cá loại đạn đặc biệt dùng để bắn phá đã được sử dụng gần hết trong trận chiến, nếu việc bắn phá sân bay thất bại thì hạm đội sẽ bị bỏ bom bởi CAF vào lúc bình minh hay với vết thương của mình và nhiều phụ tá của Abe đã bị chết trong trận chiến có thể đã ảnh hưởng đến quyết định của ông. Hoặc có thể cũng vì không biết rõ số lượng tàu của mình hay của Hoa Kỳ còn có thể chiến đấu được do hệ thống liên lạc của chiếc Hiei đã bị hỏng. Hơn nữa đội hình tàu của Nhật Bản đã bị phân tán sẽ mất một khoảng thời gian để có thể tái lập lại đội hình để bắn phá sân bay Henderson và tấn công các tàu chiến còn lại của Hoa Kỳ. Cho dù là lý do gì thì Abe cũng đã ra lệnh đình chiến và rút tất cả các tàu chiến ra khỏi khu vực, dù hai chếc YukikazeTeruzuki vẫn ở lại để trợ giúp Hiei[104]. Chiếc Samidare vớt những người sống sót của chiếc Yudachi lúc 03:00 trước khi nhập vào các tàu chiến khác rút lên phía Bắc[105].

Kết thúc

Chiếc Hieibị rò rỉ dầu sau các cuộc tấn công.

Vào khoảng 03:00 ngày 13 tháng 11 đô đốc Yamamoto đã hoãn kế hoạch đổ bộ của đoàn tàu vận tải và tất cả trở về Shortlands để chờ mệnh lệnh mới[105]. Khi bình minh ló dạng ba chiếc tàu bị tê liệt của Nhật Bản là Hiei, YudachiAmatsukaze cùng ba chiếc tàu bị tê liệt khác của Hoa Kỳ là Portland, AtlantaAaron Ward nằm ngoài khơi xung quanh đảo Savo[106]. Chiếc Amatsukaze đã bị tấn công bởi các máy bay ném bom của Hoa Kỳ nhưng đã chạy thoát với chỉ thêm vài hư hỏng nhẹ đã được sửa chữa tại Truk và trở lại hoạt động chỉ vài tháng sau đó. Vỏ tàu của chiếc Yudachi bị bỏ lại đã bị đánh chìm bởi chiếc Portland với vài khẩu pháo còn có thể hoạt động của nó[107]. Chiếc tàu kéo Bobolink chạy lòng vòng trong vùng biển New Georgia Sound suốt ngày 13 tháng 11 để trợ giúp các tàu và những người còn sống sót của Hoa Kỳ cũng như báo cáo lại việc đã bắn tất cả những người sống sót của Nhật Bản đang lênh đênh trên mặt nước[108][109].

Chiếc Hiei đã bị tấn công liên tục bởi các máy bay ném ngư lôi TBF Avenger từ Henderson cũng như các chiến TBF và máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless từ tàu sân bay Enterprise vốn đang thả neo ở Nouméa từ ngày 11 tháng 11, thậm chí cả máy bay ném bom B-17 Flying Fortress của phi đoàn ném bom hạng nặng thứ 11 của không lực Hoa Kỳ đóng ở Espiritu Santo cũng tham gia tấn công. Abe và các trợ lý của ông đã chuyển sang chiếc Yukikaze vào khoảng 08:15. Abe đã ra lệnh cho chiếc chiếc Kirishima kéo chiếc Hiei và được hộ tống bởi chiếc Nagara cùng các khu trục hạm của nó, nhưng mệnh lệnh này đã bị hủy vì mối nguy từ các tàu ngầm và chiếc Hiei đã bị chìm quá sâu[110][111]. Sau khi bị hư hại nặng hơn vì bị tấn công từ trên không chiếc Hiei đã bị chìm ở hướng Tây-Bắc đảo Savo có thể là do thủy thủ đoàn của nó đã đánh đắm nó khi thấy không thể cứu vãn được nữa vào khuya đêm ngày 13 tháng 11[112][113].

Chiếc Portland đang được sửa chữa tại cảng Sydney, Úc một tháng sau trận chiến.

Các chiếc Portland, San Francisco, Aaron Ward, SterettO'Bannon đã trở về cảng thành công một cách khó khăn để có thể sửa chữa. Chiếc Atlanta thì đã chìm ngoài khơi gần Guadalcanal vào lúc 20:00 ngày 13 tháng 11[114]. Khi rời quần đảo Solomon cùng các chiếc San Francisco, Helena, SterretO'Bannon vào khuya ngày 13, chiếc Juneau đã bị trúng ngư lôi tàu ngầm I-26 của Nhật Bản (10°32′N 161°2′Đ / 10,533°N 161,033°Đ / -10.533; 161.033Tọa độ: 10°32′N 161°2′Đ / 10,533°N 161,033°Đ / -10.533; 161.033). Hơn 100 thủy thủ đoàn còn sống sót trong tổng số 697 người của chiếc Juneau đã lênh đênh trên biển trong tám ngày trước khi được máy bay cứu hộ đến cứu. Khi chờ được giải cứu tất cả thủy thủ đoàn đã chết ngoại trừ 10 người vì bị thương, vì thời tiết hay cũng vì bị cá mập tấn công[115][116][117][118].

Vì nhầm lẫn về tính chất của trận chiến, Hoa Kỳ cứ nghĩ là mình đã đánh chìm ít nhất bảy tàu của Nhật Bản[119]. Cộng với việc Nhật Bản rút lui đã khiến Hoa Kỳ càng tin là mình đã chiến thắng. Chỉ đến khi kết thúc chiến tranh thì Hoa Kỳ mới nhận ra rằng mình đã bị thiệt hại nặng nề hơn nhiều so với Nhật Bản và đã thua về mặt chiến thuật nặng chưa từng thấy khi đó[120].

Tuy vậy hầu hết các sử gia đều đồng ý rằng việc Abe rút lui đã chuyển thất bại về chiến thuật này thành chiến thắng chiến lược cho Hoa Kỳ khi mà việc Henderson vẫn còn tồn tại đã giúp cho các phi đội chặn được đoàn tàu vận tải chập chạp của Nhật Bản đổ bộ lên Guadalcanal với hàng hóa của mình[121][122]. Cộng với việc Nhật Bản đã không đánh chìm toàn bộ hạm đội của Hoa Kỳ trong khu vực mà kết quả là Hoa Kỳ có thể sửa chữa hay mang đi tái chế lạ. Theo báo cáo thì đô đốc Yamamoto đã mắng Abe trong tức giận và sau này đã buộc ông giải ngũ. Tuy nhiên việc làm cho Yamamoto tức giận nhất không phải là việc từ bỏ nhiệm vụ bắn phá hay không đánh chìm hết các tàu của quân Hoa Kỳ mà là việc chiếc thiết giáp hạm Hiei bị chìm[123]. Vào lúc quá trưa Yamamoto đã ra lệnh cho phó đô đốc Kondo Nobutake chỉ huy hạm đội thứ hai tại Truk đã bắt đầu tập hợp quanh chiếc Kirishima để thực hiện nhiệm vụ bắn phá khác vào sân bay Henderson đêm ngày 14-15 tháng 11[123][124].

Nếu gồm cả chiếc Juneau thì phía Hoa Kỳ đã tổn thất 1.439 người còn Nhật Bản thì tổn thất khoảng 550 đến 800 người[125]. Nhà sử học Richard B. Frank đã phân tích tác động của trận chiến: "Trận chiến này xảy ra mà chẳng có ai trợ giúp, tầm gần và lúng túng khi xảy ra chiến cuộc. Nhưng kết quả vẫn chưa ngã ngũ. Cái chết của Callaghan và hạm đội của ông ta đã được đổi lấy một đêm cho sân bay Henderson tồn tại. Cuộc đổ bộ lớn của Nhật Bản bị hoãn nhưng không ngưng lại cũng như phần lớn hạm đội Liên Hợp lớn của Nhật Bản vẫn chưa xuất hiện."[126].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hải_chiến_Guadalcanal http://www.combinedfleet.com/atully03.htm http://www.historynet.com/battle-of-guadalcanal-fi... http://www.historynet.com/second-naval-battle-of-g... http://www.ww2db.com/battle_spec.php?battle_id=9 http://www.history.army.mil/books/wwii/GuadC/GC-fm... http://www.history.army.mil/books/wwii/GuadC/gc-07... http://www.dcfp.navy.mil/mc/museum/War_Damage/57.p... http://www.ibiblio.org/hyperwar/USMC/I/index.html http://www.ibiblio.org/hyperwar/USN/USN-CN-Guadalc... http://www.navsource.org/archives/01/57b.htm